Lạc thư Ngũ hành
Lạc thư, ngũ hành, Thiên nhất, địa lục, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, bát quái
Lạc thư
Sách chép đại để rằng Vua Hạ Vũ trị nạn lụt lũ ở sông Lạc, có con rùa nổi lên, trên mai có 45 chấm tròn xếp đặt thành số : tái cửu, phú nhất, tả tam, hữu thất ; nhị tứ vi kiên, lục bát vi túc, ngũ vị cư trung ( đội chín, đạp một, trái ba, phải bảy; hai, bốn làm vai, sáu, tám làm chân, năm ở trong ) nên đặt tên là LẠC THƯ và nhân đó Vua làm ra HỒNG PHẠM CỬU TRÙ trong đó có trù kêu là NGŨ HÀNH ( một ngũ hành, hai ngũ tự, ba bát chính, bốn ngũ kỷ, năm hoàng cực, sáu tam đức, bảy kê nghi, tám thứ trưng, chín phúc cực ).
Luận về Thư chư nho nhiều đời tiêu tốn giấy mực, tựu trung chẳng có kiến giải nào hướng ta tới nguyên lý, lại có người còn cho rằng biết đâu Thư không là Đồ là ý nói Lạc Thư có thể làm ra Kinh Dịch. Vậy xin hỏi có ai từ Lạc Thư mà vạch được Bát quái ???
Luận gì luận, nói gì nói không thể nói sai hiện thực. Hiện thực Lạc Thư luận được “ dương cư trung” vì thấy 5 dương ở trung tâm đồ, nhưng không luận được “ dương trung âm ngoại ” vì rằng ngoại tầng của Lạc Thư âm với dương trộn lẫn. Nơi Lạc Thư nói được “ dương sanh ở Bắc” vì ngó thấy một tròn trắng ở Bắc, còn nếu cứ vào hai tròn đen ở Tây Nam mà nói “ âm sanh ở Nam ” thì qủa là hồ đồ. Còn cái sự phân nhóm số thì qủa là vu vơ bởi số 1 ở giữa hai số 8 và 6 thì làm sao biết số 1 thành nhóm với số nào ? Tương tợ vậy, làm sao biết số 3 thành nhóm với 4 hay 8, số 9 thành nhóm với 4 hay 2 ; lại nữa Lạc Thư không có số 10 thì lấy đâu ra 10 âm để thành nhóm với 5 dương ở trung cung ? Theo lẽ trung cung Lạc Thư toàn dương tức là “cô dương” thì vô sinh __ trung cung đã vô sinh thì làm gì có âm dương tại vòng ngoài của Lạc Thư ? Rõ ràng chư nho đã quàng xiêng Hà Đồ Phục Hy vào Lạc Thư, còn Hạ Vũ ?
Vua Hạ Vũ là người thông kinh thấu sử thì không lẽ không biết huyền thoại Phục Hy ? Chư nho đời sau còn truyền tụng thì không lẽ Hà Đồ tiệt tích vào đời nhà Hạ ? Cho nên nói rằng Hạ Vũ không hay không biết Hà Đồ qủa là khó tin, mà đã hay đã biết thì lẽ thường phải ngẫm nghiệm. Là vua trong thời thánh trị, biết trước tác như Hạ Vũ ắt khó mà không theo dấu Phục Hy để đồ truyền hậu. Nếu là thời này thì chắc chắn Hạ Vũ bị tôi thưa kiện về sự xâm phạm bản quyền. Lời này là tôi nói chơi chứ không phải Hạ Vũ đã vậy, nhưng Hạ Vũ làm vậy là bởi giải mả HÀ ĐỒ thấy ló lộ cữu cung bày ra ngũ hành nhập xuất, ngộ được cữu trù chế tác HỒNG PHẠM trong đó có trù về Ngũ hành :
Thiên nhất sanh thủy, Địa lục thành chi
Địa nhị sinh hỏa,Thiên thất thành chi
Thiên tam sinh mộc, Địa bát thành chi
Địa tứ sanh kim, Thiên cửu thành chi
Thiên ngũ sanh thổ, Địa thập thành chi
Rõ ràng lời trên của Hạ Vũ giải mả ý nghĩa
NĂM NHÓM SỐ HÀ ĐỒ :
[ 1-6 ] Bắc Phương Thủy
[ 2-7 ] Nam Phương Hỏa
[ 3-8 ] Đông Phương Mộc
[ 4-9 ] Tây Phương Kim
[ 5 -10 ] Trung Ương Thổ
Đồ - Thư một trước một sau mà Đồ dẫn đến Thư tức Bát quái dẫn đến Ngũ hành, cả hai đều là ấn ký của tạo hóa cho nhân gian tri thức âm dương vũ trụ, năng lượng vũ trụ mà âm dương, năng lượng có mối tương quan, tất yếu ĐỒ - THƯ tương quan có như vậy và chỉ như vậy mới hữu lý cho sự giống nhau giữa Hạ Vũ với Phục Hy. Trong khoa học, việc người sau kế thừa công trình của người trước là sự thường có :
Truy nguyên ngũ hành không phải đợi đến Hạ Vũ mà trước đó từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế. Tương truyền Hoàng Đế sai Hi Hoà xem mặt trời, Thượng Nghi xem mặt trăng, Sử Khu xem sao khí, Đại Náo đặt Can Chi, Lệ Thủ đặt toán số và sai Dung Thành hợp sáu thuật ấy để soạn Điều lịch. Nghìn năm sau Hạ Vũ, Văn Vương vua nhà Châu nghiệm chứng âm dương sinh năng lượng mới đem ngũ hành vào BÁT QUÁI PHỤC HY sáng tạo ra BÁT QUÁI VĂN VƯƠNG với quái hành tương liên : Khảm Thủy, Ly Hỏa, Chấn Tốn Mộc, Kiền Đoài Kim, Cấn Khôn Thổ.
ĐỒ QUÁI VĂN VƯƠNG
Kinh Dịch sở dỉ có, ngũ hành bát quái công dụng sở dĩ biết
là đức lớn của Vua Văn Vương, lược sử được qua
ĐỒ QUÁI PHỤC HY & ĐỒ QUÁI VĂN VƯƠNG
Hai thứ đồ có hai chỗ khác : một khác về phương vị quái, hai khác về quái số. Khác thì rõ ràng có khác, nhưng thấy khác mà nói Văn Vương thay đổi đồ quái Phục Hy là nói sai lạc ý nghĩa của hai thứ đồ : đồ quái Phục Hy chỉ ra nơi chốn quái sanh, đồ quái Văn Vương chỉ ra nơi chốn quái dụng; quái số Phục Hy chỉ trình tự bát quái sinh thành, quái số Văn Vương chỉ vận động ngũ hành bát quái ( ai từng vận dụng thuật số bói toán ắt biết tiên thiên bát quái tức sinh quái dùng để thiết lập phương trình thức bói, hậu thiên bát quái tức dụng quái dùng để giải đoán ý nghĩa phương trình thức ).
Ở Hồng Phạm của Hạ Vũ không đả động gì đến Bát quái. Ở Kinh dịch của Văn Vương không đả động gì đến Ngũ hành. Có lẽ do vậy mà chư nho cho rằng Lạc Thư chẳng liên quan Hà Đồ, nhưng có sự lạ mà không lạ ở ĐỒ QUÁI VĂN VƯƠNG :
@/ Lạ là Bát quái Văn Vương vận dụng Lạc Thư cữu số trong đồ quái của mình ( nhứt Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, ngũ trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cữu Ly ).
@/ Không lạ bởi không cần phải thông qua Hồng Phạm vì ngũ hành có rồi từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế ; còn cái gọi “ Lạc số ” thì ở ngay trong năm nhóm số Hà Đồ. Văn Vương đặt tên gọi bát quái, dụng quái làm kinh dịch đương nhiên thông thấu Hà Đồ số Phục Hy :
Bát quái tương ma tương thôi tức quái cọ xát quái sinh năng lượng ngũ hành thủy hỏa mộc kim thổ. Vân động 5 nhóm tức ngũ hành, 10 số của năm nhóm là 10 yếu tố ngũ hành ( Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Qúi )
Trung cung Thái cực như cái van điện có chức năng tách rời âm dương riêng lối để xuất ra. Số 5 và 10 ở lại trung cung, số [ 1.3.7.9 ] bị hấp lực cùa Âm Nghi phải rẻ qua lối Tốn Khảm Cấn Khôn để nhập nội ; số [ 2.4.6.8 ] bị hấp lực của Dương Nghi phải rẻ qua lối Kiền Đoài Ly Chấn để nhập nội qúa trình nầy biến tiên thiên ngũ hành thành cá biệt.
Định luật dương chủ, dương chính nên bốn dương số [ 1.3.9.7 ] lần lược chiếm bốn chính phương Băc – Đông – Nam – Tây. Định luật âm tòng dương nên số 6 theo số 1, số 8 theo số 3, số 4 theo số 9, số 2 theo số 7 lần lược chiếm bốn phụ phương Tây Bắc, Đông Bắc, Đông nam, Tây Nam cho ra “ Lạc Đồ” :
Thần qui dâng “ thư ” hay Hạ Vũ bày ra “ Lạc Đồ ” chỉ điểm vận động hai chiều của ngũ hành qua trung cung Thái cực cho ra hai vòng ngũ một xuôi môt ngược rồi xuất ra thành vòng mười luân lưu trên thập nhị địa chi :
Bát quái sinh Ngũ hành, ngũ hành thể nhập quái thành ngũ hành bát quái. Ngũ hành bát quái đi qua trung cung Thái cực rồi xuất ra : Bốn dương quai hành Kiền Khảm Cấn Chấn bị hút dẫn về miền âm thái âm thịnh đển cư vị tại Tây Bắc, Bắc, Đông Bắc và Đông. Bốn âm quái hành Tốn Ly Khôn Đoài bị hút dẫn về miền dương thái dương thịnh đển cư vị tại Đông Nam, Nam, Tây Nam và Tây cho ra đồ ngũ hành bát quái :
Từ Hà đồ Bát quái - Lạc thư Ngũ hành,
Văn Vương phát minh ra ngũ hành bát quái :
Khảm thủy, Ly hỏa, Chấn Tốn mộc, Kiền Đoài kim, Cấn Khôn thổ
chế tác ra
ĐỒ QUÁI VĂN VƯƠNG
Hỏi do đâu mà biết quái đâu hành đấy ? Thưa là từ xác minh của Hồng Phạm về ngũ hành năm nhóm số Hà Đồ : Bắc phương thủy, Nam phương hỏa, Đông phương mộc, Tây phương kim, Trung ương thổ theo đó thì KHẢM THỦY, LY HỎA, CHẤN MỘC, ĐOÀI KIM :
Còn bốn quái Kiền, Tốn, Khôn, Cấn hành gi trong ngũ hành thì chưa biết, lại cớ gì nói Tốn tì hòa Chấn, Kiền tì hòa Đoài, Cấn Khôn tì hòa thì chưa có lý giải, nhưng không phải là không chứng minh được. Để chứng minh phải trở lại năm nhóm số Hà Đồ vừa sinh bát quái lại vừa sanh ngũ hành theo lý mà suy thì bát quái phải qui được thành 5 nhóm hành, việc này cần phải cứu xét quái thể của từng cặp quái sinh ra bởi tượng đó có định vị đúng theo qui luật << dương thượng âm hạ >> hay không đúng thì thành nhóm đồng hành, không đúng thì không thành nhóm.
Dương quái Kiền & Âm quái Đoài của Thái dương tượng thành nhóm được vì hai quái xếp đặt đúng qui luật << dương thượng âm hạ >> của tượng với Kiền trên, Đoài dưới. Dương quái Cấn & Âm quái Khôn của Thái âm tượng thành nhóm được vì hai quái xếp đặt đúng qui luật << dương thượng âm hạ >> của tượng với Cấn trên Khôn dưới.
Trái lại Âm quái Ly & Dương quái Chấn của Thiếu âm tượng với Ly âm mà trên, Chấn dương mà dưới thì không thành nhóm được vì hai quái xếp đặc không đúng qui luật << dương thượng âm hạ >> của tượng. Cũng vậy Âm quái Tốn & Dương quái Khảm của Thiếu dương tượng với Tốn âm mà trên, Khảm dương mà dưới thì không thành nhóm được vì hai quái xếp đặc không đúng qui luật << dương thượng âm hạ >> của tượng.
Trên đây là trường hợp của Nội Bát quái. Tuy nhiên ở Ngoại Bát quái với tám quái thành hàng từ trên xuống thì hai quái Chấn Tốn thành nhóm được vì dương Chấn trên âm Tốn.
Kết qủa tám quái qui được 5 nhóm : Kiền Đoài thành nhóm mà Đoài hành Kim thì Kiền Kim. Chấn Tốn thành nhóm mà Chấn hành Mộc thì Tốn Mộc. Ly hành hỏa riêng nhóm, Khảm hành thủy riêng nhóm. Suy ra được Cấn Khôn hành thổ thành nhóm. Lại căn cứ vào thể quái âm dương mà nói Khảm dương thủy, Ly âm hỏa, Chấn dương mộc, Đoài âm kim, Tốn âm mộc, Kiền dương kim, Cấn dương thổ, Khôn âm thổ.
NGŨ HÀNH
BÁT QUÁI sanh NGŨ HÀNH mà QUÁI có quái tương hợp, có quái bất tương hợp thì NGŨ HÀNH do quái ứng ra phải có hành tương hợp, có hành bất tương hợp là lý. BÁT QUÁI có tương ma tương thôi tức là có tương tác quái thì NGŨ HÀNH do Bát quái ứng ra phải có tương tác hành là lý. BÁT QUÁI vận động có tuần hoàn qui nguyên hồi đầu thì NGŨ HÀNH do quái ứng ra phải có vận động qui nguyên hồi đầu là lý. Ngũ Hành nhập xuất ra vào trung cung Thái Cực mà trung cung thổ thì hành Thổ có xuất nhập là lý. Trung ương Thổ có xuất nhập thì Bắc phương Thủy, Nam phương Hỏa, Đông phương Mộc, Tây phương Kim với bốn hành Thủy Hỏa Mộc Kim phải có xuất nhập là lý.
Quan sát vật, chiêm nghiệm vật không thấy có vật nào loại trừ nguyên lý nhập xuất của ngũ hành. Nhập thì một đường nhập để sanh, một đường nhập để khác. Xuất thì một đường xuất để sanh, một đường xuất để khắc :
Nhưng bằng lý nào mà biết hành này sanh hành kia như Kim sanh Thủy, và hành kia khắc hành nọ như Thủy khắc Hỏa ? Giải thích được sự này lại phải lôi Hà Đồ ra khảo nghiệm âm dương để tìm nguyên lý.
Ngũ Hành từ Bát Quái sanh, Bát Quái từ Tứ Tượng sanh. Tượng là cuộc giao hợp đầu tiên của nhị khí âm dương để sanh nên chi Tượng là mẹ cha của Quái. Qui luật chung cho muôn vật với << dương thượng âm hạ >> chưng bày rõ ở Tượng :
1/ CHẤN quái - LY quái đồng cùng Thiếu Âm Tượng mà Chấn quái thuộc âm tượng Thiếu Âm, Ly quái thuộc dương tượng Thiếu Âm : chiều từ Chấn đến Ly là sanh chiều nên chi Chấn Mộc sanh Ly Hỏa tổng quát là mộc sanh hỏa. 2/ ĐOÀI quái - KIỀN quái đồng cùng Thái Dương Tượng mà Đoài quái thuộc âm tượng Thái Dương, Kiền quái thuộc dương tượng Thái dương : chìều từ Đoài đến Kiền là sanh chiều nên chi Đoài Kim sanh Kiền Kim. Hai quái Kiền Đoài đồng hành nên chi nói Kiền Đoài tì hòa hành, 3/ TỐN quái - KHẢM quái đồng cùng Thiếu Dương Tượng mà Tốn quái thuộc dương tượng Thiếu Dương, Khảm quái thuộc âm tượng Thiếu Dương : chiều từ Khảm đến Tốn là sanh chiều nên chi Khảm Thủy sanh Tốn Mộc tổng quát là thủy sanh mộc.
4/ CẤN quái - KHÔN quái đồng cùng Thái Âm Tượng mà Cấn quái thuộc dương tượng Thái Âm, Khôn quái thuộc âm tượng Thái Âm : chiều từ Khôn đến Cấn là sanh chiều nên chi Khôn thổ sanh Cấn thổ. Hai quái Khôn Cấn đồng hành nên chi nói tì hòa hành.
Hai Tượng tiếp xúc nhau, quái sanh ở miền dương với quái sanh ở miền âm không đồng cùng âm dương lượng biến thiên, có chiều từ dương tượng đến âm tượng là chiều khắc nên khắc nhau như Ly Đoài, Cấn Khảm :
Lý Dịch đề cao tuyệt đối tính chất << âm dương đăng đối >> : đã có tương tác ba đăng << 2 khắc 1 sanh >> thì ắt có tương tác ba đối << 2 sanh 1 khắc >>. Theo lý đó mà luận thì thủy phải khắc hỏa tức Khảm Thủy khắc Ly Hỏa.
Với hai nhóm ba trong bảng A bên dưới : [ Kim Mộc Hỏa ] và [ Thổ Thủy Mộc ] đã biết hành tương tác sanh khắc. Nhìn sang hai nhóm ba của bảng B [ Thủy Mộc Kim ] và [ Hỏa Mộc Thổ ] tương tác hành đã có << 1 sanh 1 khắc >> :
Gỉa thiết 2,3,4 của hai nhóm không thành lập được bởi lẽ sự sanh, sự khắc chỉ duy nhất xảy ra với một hành trong số năm hành :
@/ Đã có Kim khắc Mộc thì không thể có Kim khắc hành nào khác, đã có Thủy sanh Mộc và Thủy khắc Hỏa thì Thủy không thể sanh khắc một hành nào khác. Gỉa thiết 1 thành lập được với Kim sanh Thủy tức Kiền Đoài Kim sanh Khảm Thủy.
@/ Đã có Hỏa khắc Kim thì không thể có Hỏa khắc hành nào khác, đã có Thổ khắc Thủy và Thổ sanh Kim thì Thổ không thể sanh khắc một hành nào khác. Gỉa thiết 1 thành lập được với Hỏa sanh Thổ tức Ly hỏa sanh Cấn Khôn thổ.
Như vậy là từ BÁT QUÁI luận ra được ngũ hành KIM MỘC THỦY HỎA THỔ có mối tương tác SANH KHẮC. TƯƠNG TÁC SANH thì hành KIM sanh hành THỦY, hành THỦY sanh hành MỘC, hành MỘC sanh hành HỎA, hành HỎA sanh hành THỔ, hành THỔ sanh hành KIM làm thành vòng tuần hoàn TƯƠNG SANH. TƯƠNG TÁC KHẮC thì hành KIM khắc hành MỘC, hành MỘC khắc hành THỔ, hành THỔ khắc hành THỦY, hành THỦY khắc hành HỎA, hành HỎA khắc hành KIM làm thành vòng tuần hoàn TƯƠNG KHẮC.
NGŨ HÀNH
SANH - KHẮC - TÌ HÒA
BÁT QUÁI sanh NGŨ HÀNH mà QUÁI có quái tương hợp, có quái bất tương hợp thì NGŨ HÀNH do quái ứng ra phải có hành tương hợp, có hành bất tương hợp là lý. BÁT QUÁI có tương ma tương thôi tức là có tương tác quái thì NGŨ HÀNH do Bát quái ứng ra phải có tương tác hành là lý. BÁT QUÁI vận động có tuần hoàn qui nguyên hồi đầu thì NGŨ HÀNH do quái ứng ra phải có vận động qui nguyên hồi đầu là lý. Ngũ Hành nhập xuất ra vào trung cung Thái Cực mà trung cung thổ thì hành Thổ có xuất nhập là lý. Trung ương Thổ có xuất nhập thì Bắc phương Thủy, Nam phương Hỏa, Đông phương Mộc, Tây phương Kim với bốn hành Thủy Hỏa Mộc Kim phải có xuất nhập là lý.
Quan sát vật, chiêm nghiệm vật không thấy có vật nào loại trừ nguyên lý nhập xuất của ngũ hành. Nhập thì một đường nhập để sanh, một đường nhập để khác. Xuất thì một đường xuất để sanh, một đường xuất để khắc :
Nhưng bằng lý nào mà biết hành này sanh hành kia như Kim sanh Thủy, và hành kia khắc hành nọ như Thủy khắc Hỏa ? Giải thích được sự này lại phải lôi Hà Đồ ra khảo nghiệm âm dương để tìm nguyên lý.
Ngũ Hành từ Bát Quái sanh, Bát Quái từ Tứ Tượng sanh. Tượng là cuộc giao hợp đầu tiên của nhị khí âm dương để sanh nên chi Tượng là mẹ cha của Quái. Qui luật chung cho muôn vật với << dương thượng âm hạ >> chưng bày rõ ở Tượng :
Chiều từ âm tượng đến dương tượng là chiều sanh. Chiều từ dương tượng đến âm tượng là chiều khắc. Hai quái đồng tượng, đồng cùng âm dương lượng biến thiên có chiều từ âm đến dương là chiều sanh nên quái sanh ở miền âm sanh quái sanh ở miền dương như Chấn Ly, Đoài Kiền, Khôn Cấn, Khảm Tốn
4/ CẤN quái - KHÔN quái đồng cùng Thái Âm Tượng mà Cấn quái thuộc dương tượng Thái Âm, Khôn quái thuộc âm tượng Thái Âm : chiều từ Khôn đến Cấn là sanh chiều nên chi Khôn thổ sanh Cấn thổ. Hai quái Khôn Cấn đồng hành nên chi nói tì hòa hành.
Hai Tượng tiếp xúc nhau, quái sanh ở miền dương với quái sanh ở miền âm không đồng cùng âm dương lượng biến thiên, có chiều từ dương tượng đến âm tượng là chiều khắc nên khắc nhau như Ly Đoài, Cấn Khảm :
1/ LY quái - ĐOÀI quái là hai quái thuộc hai tượng Thiếu Thái bất đồng thể bất tương hợp mà Ly quái thuộc phần dương của Thiếu Âm, Đoài quái thuộc phần âm của Thái Dương : chiều từ Ly đến Đoài là khắc chiều nên Ly hỏa khắc Đoài Kim tổng quát là Hỏa khắc Kim. 2/ KIỀN quái - CHẤN quái là hai quái thuộc hai tượng Thái Thiếu bất tương hợp mà Kiền quái thuộc phần dương của Thái Dương, Chấn quái thuộc phần âm của Thiếu Âm có chiều từ Kiền đến Chấn là khắc chiều nên Kiền kim khắc Chấn mộc tổng quát là kim khắc mộc. 3/ CẤN quái - KHẢM quái là hai quái thuộc hai tượng Thái Thiếu bất đồng thể bất tương hợp mà Cấn quái thuộc phần dương của Thái Âm, Khảm quái thuộc phần âm của Thiếu Dương : chiều từ Cấn đến Khảm là khắc chiều nên chi Cấn Thổ khắc Khảm Thủy tổng quát là thổ khắc thủy. 4/ TỐN quái KHÔN quái là hai quái thuộc hai tượng Thái Thiếu bất đồng thể bất tương hợp mà Tốn quái thuộc phần dương của Thiếu Dương, Khôn quái thuộc phần âm của Thái Âm : chiều từ Tốn đến Khôn là khắc chiều nên Tốn mộc khắc Khôn thổ tổng quát là mộc khắc thổ.
Riêng ba cặp quái [ ĐOÀI - KHẢM ] [ LY - CẤN ] [ KHẢM - LY ] nhìn bề ngoài không thể biết mối tương tác sanh khắc giữa chúng mà phải đào sâu vô trong bát quái lưỡng phân với tám nhóm quái trong bảng biểu này mới tìm ra lý lẻ :
Theo dõi hai nhóm ba tương tác đã biết sanh khắc hành trong bảng A bên dưới thấy rằng nhóm ba hành [ Kim Hỏa Mộc ] tương tác với chu trình hai khắc một sanh, và nhóm ba hành [ Thổ Thủy Mộc ] tương tác cũng với chu trình hai khắc một sanh. Nhìn sang bảng B với nhóm ba hành [ Thủy Mộc Hỏa ] tương tác đã có hai sanh, và nhóm ba hành [ Hỏa Thủy Mộc ] tương tác cũng đã có hai sanh. Vậy thì sanh hay khắc xảy ra giữa hai hành Thủy Hỏa ?
Với hai nhóm ba trong bảng A bên dưới : [ Kim Mộc Hỏa ] và [ Thổ Thủy Mộc ] đã biết hành tương tác sanh khắc. Nhìn sang hai nhóm ba của bảng B [ Thủy Mộc Kim ] và [ Hỏa Mộc Thổ ] tương tác hành đã có << 1 sanh 1 khắc >> :
@/ Đã có Kim khắc Mộc thì không thể có Kim khắc hành nào khác, đã có Thủy sanh Mộc và Thủy khắc Hỏa thì Thủy không thể sanh khắc một hành nào khác. Gỉa thiết 1 thành lập được với Kim sanh Thủy tức Kiền Đoài Kim sanh Khảm Thủy.
@/ Đã có Hỏa khắc Kim thì không thể có Hỏa khắc hành nào khác, đã có Thổ khắc Thủy và Thổ sanh Kim thì Thổ không thể sanh khắc một hành nào khác. Gỉa thiết 1 thành lập được với Hỏa sanh Thổ tức Ly hỏa sanh Cấn Khôn thổ.
Như vậy là từ BÁT QUÁI luận ra được ngũ hành KIM MỘC THỦY HỎA THỔ có mối tương tác SANH KHẮC. TƯƠNG TÁC SANH thì hành KIM sanh hành THỦY, hành THỦY sanh hành MỘC, hành MỘC sanh hành HỎA, hành HỎA sanh hành THỔ, hành THỔ sanh hành KIM làm thành vòng tuần hoàn TƯƠNG SANH. TƯƠNG TÁC KHẮC thì hành KIM khắc hành MỘC, hành MỘC khắc hành THỔ, hành THỔ khắc hành THỦY, hành THỦY khắc hành HỎA, hành HỎA khắc hành KIM làm thành vòng tuần hoàn TƯƠNG KHẮC.
Đăng nhận xét